Có 2 vấn đề đối với dự phòng nợ xấu (?):
1. Phần "nợ xấu" bị mất đi không phải biến mất vào không khí. Khi ngân hàng cho vay chính là sử dụng equity của shareholders và dùng đòn bẩy là tiền gửi (CD accounts) hoặc là huy động từ thị trường vốn dài hạn và ngắn hạn (money market & bond market). Khi khoản vay biến thành "nợ xấu", thì ngân hàng dù không đòi được tiền từ người đi vay vẫn phải trả nợ cho chủ nợ (mà ngân hàng vay tiền).
Nếu theo ý kiến của bạn, dự phòng bao nhiêu thì giảm dự phòng bấy nhiêu, dự phòng cho một khoản vay đấy hết thì thôi - thì giả sử như dự phòng 50%, mất hết 90% vốn. Vậy 40% đi đâu? Ai sẽ trả 40% này? Theo order of priority of claims in liquidation, thì được quyền hưởng claims of collateral đầu tiền là debt holders, chính là người gửi tiền (depositors) và trái chủ (debt holders). Tất cả các khoản lỗ đều do shareholders chịu đầu tiên. Trong tình huống này cũng thế thôi, nếu dự phòng không đủ thì 40% phải lấy từ shareholders' equity ra để bù vào, dưới hình thức là provision to expected loan losses, là một expense trong bảng P&L.
Khi ngân hàng nhà nước yêu cầu các ngân hàng tăng vốn, hoặc thực hiện "tái cấp vốn" (bơm tiền trực tiếp), thì chính là một hình thức tăng equity để ngân hàng không vỡ nợ vì nợ xấu tăng cao quá sức chịu.
2. Ngoài ra theo mình hiểu thì thường không có chuyện dự phòng nợ xấu theo từng khoản một (per loan) mà thường theo nhóm (per pool) tuỳ theo tính chất. Sở dĩ như vậy là vì ngân hàng cho vay nhiều thế mà dự phòng từng khoản thì riêng chi phí cho kế toán thôi cũng chết rồi. Chỉ khi write down hoặc write off, vì là actuals nên mới phải chính xác đến từng khoản. Còn provision là ước tính (estimate), vì chung cho một nhóm nên không có chuyện "hết dự phòng cho một khoản".